RUBELLA BẨM SINH
Với những bệnh nhân không mang thai thì Rubella là bệnh lành tính, ít ảnh hưởng tới sức khỏe. Nhưng nhiều báo cáo cho thấy nếu bị nhiễm bệnh này trong ba tháng đầu của thời kỳ thai nghén, sẽ gây tỷ lệ dị tật rất cao.
1. DỊCH TỄ HỌC
1.1. Rubella bẩm sinh là bệnh thường gặp. Tuy nhiên bệnh giảm đi nhờ các biện pháp dự phòng. Chẳng hạn như ở Pháp năm 1987 có 105 sản phụ bị nhiễm bệnh, nhưng đến năm 1989 chỉ có 43 trường hợp nhiễm Rubella khi mang thai. Trong đó có 17 trường hợp phá thai và 4 trường hợp sinh với dấu hiệu nhiễm bệnh Rubella bẩm sinh (bị nhiễm trong 3 tháng đầu)
1.2. Nhiễm Rubella ảnh hưởng trực tiếp tới thai nghén trong thời kỳ mang thai:
0-8 tuần thời kỳ mang thai 85% biến dạng hoặc tàn tật
9-12 tuần… 52%….
13-20… 16%….
Trên 20 tuần… 0%….
Tuy nhiên nhiễm bệnh muộn sau ba tháng cũng không hoàn toàn tránh được mắc Rubella bẩm sinh tiến triển.
2. ẢNH HƯỞNG TỚI THAI: Có thể có hai bức tranh đối lập nhau
2.1. Hội chứng dị dạng (miêu tả bởi GREGG năm 1941): nó có thể phát hiện được ngay khi sinh hoặc muộn hơn, vì những di chứng của Rubella bẩm sinh tiến triển, nó có thể gặp sau nhiều năm. Thực vậy một số tổn thương tồn tại tiến triển lâu dài. Mặt khác những thiếu hụt về giác quan hoặc thần kinh tâm thần, chỉ có thể phát hiện được trong quá trình phát triển sinh lý vận động của trẻ, đôi khi phát hiện được khi đi học ở trường.
Mắt, hệ thống thính giác, tim, hệ thần kinh trung ương là những cơ quan bị tác động một cách chọn lọc. Những dị dạng này thường nhiều và phối hợp với nhau.
Tổn thương mắt. Nó thường tổn thương kết mạc hai bên. Người ta cũng có thể thấy dị dạng loại nhãn cầu nhỏ, tăng nhãn áp, đục giác mạc hai bên.
Tổn thương thính giác. Điếc thường không đối xứng, hiếm khi điếc hoàn toàn. Nó làm giảm sức nghe (điếc kiểu nhận cản, không phải do dẫn truyền) điếc thường nặng dần.
Dị dạng tim. Tất cả dị dạng đều có thể gặp, nhưng hay gặp nhất là còn ống động mạch, hẹp động mạch phổi.
Tổn thương thần kinh. Não bé, chậm phát triển trí tuệ.
Những dị dạng khác. Rất hiếm gặp, nhất là răng: giảm sản, ngừng phát triển của một số răng, tật hàm nhỏ.
2.2. Rubella bẩm sinh tiến triển: Đó là nhiễm vi rút toàn thân mãn tính. Vi rút có mặt trong nội tạng và trong hầu họng, nó sinh nở nhanh (khoảng trong 6 tháng). Những tổn thương này phối hợp với dị dạng gặp ngay sau khi sinh. Nó dẫn tới tổn thương nhiều tạng tiến triển, có thể thoái lui hoặc khu trú xung quanh tổn thương di chứng.
Rubella tiến triển, trẻ lúc sinh có trọng lượng nhỏ và tất cả những dị dạng ít nhiều phối hợp với nhau bao gồm: ban xuất huyết giảm tiểu cầu, viêm gan với gan lách phì đại và vàng da, viêm màng não thể bạch cầu có hoặc không có dấu hiệu thần kinh kèm theo, viêm cơ tim, viêm phổi kẽ, tổn thương xương trên X quang. Tỷ lệ chết không phải là hiếm gặp (1 trên 5)
Về sau, có thể có bất thường về thần kinh, chậm phát triển tâm thần vận động, có thể làm tăng thêm nguy cơ viêm não Rubella tiến triển. Tiên lượng xa của Rubella bẩm sinh tiến triển là khó đoán trước, đặc biệt là về tâm thần vận động.
3. CHẨN ĐOÁN BỆNH: Thường chẩn đoán dễ bởi tiền sử và những dấu hiệu bất thường.
Trong những trường hợp Mẹ không có triệu chứng nhiễm Rubella điển hình lúc mang thai, nhưng trẻ sinh ra nghi bị nhiễm Rubella, để chẩn đoán xác định cần dựa trên :
4.1 . Những phụ nữ có thai huyết thanh âm tính ( xét nghiệm huyết thanh trước khi cưới theo luật định) hoặc không biết tình trạng miễn dịch: Những người phụ nữ này phải được theo dõi một cách đặc biệt trong 3 tháng đầu của thời kỳ thai nghén và những vấn đề đặt ra trong hai hoàn cảnh sau:
– Phòng bệnh bằng cách khám sức khỏe, giáo dục, tiêm phòng trước khi muốn có thai
– Không có chỉ dẫn nào ngoài huyết thanh miễn dịch đặc hiệu chứng minh chính xác
– Khi có biểu hiện chắc chắn nhiễm bệnh trong 3 tháng đầu thì cần đình chỉ thai nghén ngay mà không phải bàn cãi.